[PR]上記の広告は3ヶ月以上新規記事投稿のないブログに表示されています。新しい記事を書く事で広告が消えます。
Công ty cổ phần dược phẩm Hà Tây.
Địa chỉ tại 10A Quang Trung – Hà Đông – Hà Nội.
Hộp 6 vỉ x 5 ống.
Dung dịch uống.
– Piracetam 1200mg/6ml.
– Tá dược vừa đủ 1 ống.
Piracetam thuộc nhóm thuốc hướng thần và có tác động lên một số chất dẫn truyền thần kinh, làm tăng giải phóng Acetylcholin, Dopamin. Thuốc có thể làm thay đổi sự dẫn truyền thần kinh và góp phần cải thiện chuyển hóa để các tế bào thần kinh hoạt động tốt, do đó cải thiện sự học tập và các hoạt động có liên quan đến trí nhớ.
Thuốc Stasamin được dùng trong các trường hợp:
– Bệnh do rối loạn thần kinh trung ương và ngoại biên như: chóng mặt, đau đầu, mê sảng…
– Hỗ trợ thần kinh ở người cao tuổi: Bệnh Alzheimer, mất trí nhớ, trí nhớ suy giảm, kém tập trung, suy giảm chức năng nhận thức, rối loạn hành vi, sa sút trí tuệ…
– Có tác dụng hỗ trợ điều trị tổn thương sau chấn thương sọ não và sau khi phẫu thuật não: thiếu máu cục bộ, liệt nửa người, rối loạn tâm thần, …
– Thiếu máu hồng cầu hình liềm.
– Nghiện rượu.
– Hỗ trợ điều trị trong chứng giật rung cơ, nhược cơ.
– Hiệu quả trong chứng khó đọc ở trẻ em.
– Có thể uống thuốc trước hoặc sau bữa ăn.
– Sau khi uống có thể để lại vị đắng do vậy sau khi uống thuốc có thể uống một ly nước để giảm bớt vị khó chịu trong miệng.
Uống thuốc theo sự chỉ dẫn của bác sĩ hoặc dược sĩ.
– Liều thường dùng 30 – 160 mg/kg/ngày, chia 2 – 3 lần mỗi ngày.
– Hỗ trợ thần kinh ở người cao tuổi: 1,2 – 2,4g/ngày. Liều có thể cao tới 4,8g/ngày/những tuần đầu.
– Điều trị nghiện rượu: thời gian đầu cai rượu uống 12g/ngày. Liều duy trì: Uống 2,4g/ngày.
– Hỗ trợ điều trị sau chấn thương não hoặc phẫu thuật não: Liều khởi đầu dùng 9 – 12g/ngày, liều duy trì dùng 2,4g/ngày, dùng thuốc ít nhất trong 3 tuần.
– Thiếu máu hồng cầu hình liềm: 160 mg/kg/ngày, chia làm 4 lần uống một ngày.
– Điều trị giật rung cơ, nhược cơ: 7,2g/ngày, chia thành 2 – 3 lần uống mỗi ngày. Tuỳ theo tiến triển bệnh khoảng 3 – 4 ngày tăng thêm 4,8g/ngày cho đến khi đạt liều tối đa là 20g/ngày.
– Nếu quên uống một liều, hãy uống ngay sau khi nhớ ra (trừ khi gần đến giờ dùng liều tiếp theo, trong trường hợp đó hãy bỏ liều đã quên). Không dùng liều gấp đôi để bù cho liều đã quên.
– Stasamin không độc khi dùng quá liều, tuy nhiên gây lo âu, mất ngủ, kích thích, đau đầu, kích động, căng thẳng. Do đó không nên lạm dụng thuốc để tăng trí nhớ ngoài chỉ định của bác sĩ.
Không dùng trong các trường hợp:
– Suy gan.
– Suy thận nặng.
– Xuất huyết não.
Khí dùng thuốc Stasamin có thể gặp một số tác dụng phụ như:
– Tăng cân. Có thể khắc phục bằng cách ăn một chế độ ăn uống cân bằng có chứa nhiều trái cây và rau quả.
– Cảm thấy lo lắng hoặc run rẩy. Nếu tình trạng này xảy ra thường xuyên hãy nói chuyện với bác sĩ.
– Buồn ngủ. Để đảm bảo an toàn thì không lái xe và không sử dụng các công cụ hoặc máy móc.
– Piracetam làm tăng tác dụng của: Cilostazol; Clopidogrel; Dipyridamole; eptifibatide; Prasugrel; Ticlopidin; Tirofiban bởi sự hiệp đồng tác dụng nên cần giám sát khi khi dùng chung và cần có chỉ định của bác sĩ.
– Tương tác giữa piracetam và thuốc điều trị tuyến giáp Levothyroxin; Liothyronine khi dùng đồng thời có thể gây lú lẫn hoặc rối loạn giấc ngủ.
– Phụ nữ có thai:
+ Piracetam vượt qua hàng rào nhau thai. Nồng độ thuốc ở trẻ khoảng 70% đến 90% nồng độ của mẹ.
+ Do vậy không sử dụng Stasamin trong khi mang thai trừ khi có chỉ định của bác sĩ.
– Bà mẹ cho con bú:
+ Piracetam được bài tiết qua sữa mẹ. Do đó, không nên sử dụng Stasamin khi đang nuôi con bằng sữa mẹ.
+ Do vậy cần tham khảo ý kiến của bác sĩ về việc ngừng cho con bú hoặc đổi thuốc, ngừng thuốc.
Thận trọng khi dùng thuốc cho người đang lái xe hay vận hành máy móc do có tác dụng phụ có thể gặp là buồn ngủ.
– Để thuốc xa tầm tay trẻ em.
– Bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng mát, tránh xa nhiệt và ánh sáng trực tiếp.
Thuốc Stasamin có giá giao động 300.000 – 400.000 đồng. Liên hệ với chúng tôi để mua được thuốc giá tốt và được dược sĩ tư vấn mọi thắc mắc về thuốc.
– Thuốc dạng dung dịch uống nên phù hợp với nhiều đối tượng, kể cả người già.
– Hấp thu nhanh, ít kích ứng.
– Kém ổn định hơn so với các dạng thuốc rắn.
– Giá thành tương đối cao.
Công ty dược phẩm Eli Lilly – Indiana, Hoa Kỳ.
Hộp 1 lọ x 10 ml.
Dung dịch tiêm.
Trong mỗi lọ thuốc có chứa:
– Insulin 100 IU/1ml.
– Tá dược vừa đủ 10 ml.
– Thuốc chứa hoạt chất là Insulin người sản xuất theo công nghệ tái tổ hợp gen, có tác dụng giống như Insulin được bài tiết tự nhiên trong cơ thể người.
– Insulin là 1 hormon do tế bào Beta tuyến tụy tiết ra, nhằm điều chỉnh và giữ cho nồng độ Glucose trong máu ở mức bình thường.
– Cơ chế hạ đường huyết của Insulin: Làm tăng việc sử dụng Glucose của tế bào, nhất là tế bào cơ. Mặt khác, nó cũng làm tăng quá trình tân tạo Glycogen từ Glucose ở gan, từ đó giúp cho lượng đường máu giảm xuống.
– Bệnh nhân bị đái tháo đường cần phải dùng Insulin để duy trì nồng độ đường trong máu.
– Kiểm soát đường huyết đối với phụ nữ có thai bị đái tháo đường thai kỳ.
Thuốc được dùng theo đường tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch.
– Đối với tiêm dưới da (da bụng, da đùi, cánh tay trên hoặc mông): tiêm trước khi ăn 30 phút.
+ Đầu tiên, sát khuẩn vị trí tiêm bằng cồn 70 độ.
+ Sát khuẩn tay bằng cồn 70 độ hoặc đeo găng tay y tế.
+ Đưa mũi kim tiêm vào vị trí cần tiêm và bắt đầu tiêm theo đúng kĩ thuật tiêm dưới da đã được nhân viên y tế hướng dẫn.
+ Rút kim tiêm, làm sạch vùng da vừa tiêm bằng cồn 70 độ.
+ Cần phải thay đổi vị trí tiêm nếu tiêm thuốc thường xuyên, không tiêm chồng lên chỗ cũ.
– Đối với tiêm tĩnh mạch: thuốc được tiêm với tốc độ chậm và được thực hiện bởi nhân viên y tế có chuyên môn.
Sử dụng theo chỉ dẫn của bác sĩ.
– Quên liều: ngay khi phát hiện quên liều cần phải hỏi ý kiến bác sĩ về việc bổ sung liều vừa quên.
– Quá liều: có thể gây ra hiện tượng tụt đường huyết quá mức và hạ kali máu. Nếu không may sử dụng quá liều, cần đưa tới bệnh viện để xử lý, điều trị kịp thời.
Không sử dụng thuốc trên những đối tượng bệnh nhân sau:
– Phản ứng mẫn cảm với bất kì thành phần nào của thuốc.
– Người đang hoặc mới xảy ra tình trạng hạ đường huyết.
Một số phản ứng phụ của thuốc:
– Thường gặp nhất: hiện tượng hạ đường huyết.
– Hay gặp: mẩn đỏ, sưng nề, ngứa tại vị trí tiêm. Tuy nhiên, phản ứng này thường mất sau vài ngày tới vài tuần.
– Rất hiếm gặp:
+ Phản ứng quá mẫn: phát ban, nổi mẩn ngứa toàn thân, khó thở, hen, tụt huyết áp, mạch nhanh, vã mồ hôi. Các trường hợp này cần phải đưa ngay tới cơ sở y tế gần nhất để xử trí và cấp cứu kịp thời.
+ Rối loạn phân bố mỡ tại vị trí tiêm.
– Có thể phải tăng liều Insulin khi sử dụng cùng với các thuốc gây tăng đường huyết:
+ Thuốc thuộc nhóm Glucocorticoid.
+ Hormon tuyến giáp.
+ Thuốc cường Beta giao cảm.
– Điều chỉnh giảm liều Insulin nếu dùng kết hợp với:
+ Thuốc hạ đường huyết khác.
+ Dẫn chất salicylat.
+ Thuốc chống trầm cảm (IMAO).
+ Thuốc ức chế men chuyển: Captopril, Enalapril,…
+ Thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II.
+ Thuốc chẹn Beta giao cảm không chọn lọc.
+ Rượu.
– Kết hợp với Pioglitazone: có thể gây suy tim ở bệnh nhân có nguy cơ bị bệnh tim, do đó cần phải cân nhắc trước khi sử dụng.
Chưa có báo cáo nào trên lâm sàng về nguy cơ gây dị tật thai nhi hoặc xảy ra phản ứng có hại đối với trẻ đang bú sữa mẹ. Mặc dù vậy, khi điều trị với Insulin, cần theo dõi cẩn thận lượng đường trong máu và nồng độ kali huyết để điều chỉnh liều lượng và chế độ sinh hoạt cho phù hợp.
Do tác dụng tụt đường huyết của Insulin, người lái xe và vận hành máy móc sẽ bị giảm khả năng tập trung. Điều này đem tới rủi ro cao trong việc xử lý tình huống của người điều khiển phương tiện. Vì vậy, cần phải cân nhắc việc sử dụng thuốc cho đối tượng này.
– Cần phải đổi vị trí tiêm dưới da thường xuyên.
– Trước khi tiêm, quan sát cẩn thận màu sắc dung dịch, hạn sử dụng trên bao bì để chắc chắn không có gì bất thường, thuốc tiêm đảm bảo độ an toàn và ổn định.
– Để sản phẩm ở nơi khô ráo, tránh ánh sáng trực tiếp.
– Không được để ở ngăn đá tủ lạnh.
– Lọ chưa mở: Bảo quản ở nhiệt độ từ 2-8 độ C.
– Sau sử dụng lần đầu: Bảo quản dưới 30 độ C.
Thuốc được sản xuất bởi công ty nước ngoài và được nhập khẩu về Việt Nam nên có giá thành tương đối cao. Để được tư vấn cũng như mua được sản phẩm chính hãng, giá cả hợp lý, khách hàng hãy liên hệ với chúng tôi qua số hotline ở trên.
– Tác dụng tốt.
– Hiệu quả nhanh, tức thời.
– Sinh khả dụng cao.
– Dùng được cho cả trẻ em, phụ nữ có thai và cho con bú.
– Giá thành khá cao.
– Thuốc tiêm đòi hỏi kỹ thuật tiêm.
– Nổi mẩn đỏ, sưng tấy tại vị trí tiêm trong thời gian đầu.
– Hay gặp rối loạn tiêu hóa.
– Ảnh hưởng tới khả năng điều khiển phương tiện và vận hành thiết bị.
Công ty Mega Lifesciences (Australia) Pty., Ltd-Úc.
Mỗi lọ gồm 30 viên.
Viên nén bao phim.
– Acid Ascorbic 400mg.
– Sodium Ascorbate 350mg.
– Calcium Ascorbate 400mg.
– Tá dược vừa đủ.
– Acid Ascorbic và các muối Ascorbat là các dạng chủ yếu của vitamin C. Đây là vitamin được cung cấp từ bên ngoài do cơ thể không thể tổng hợp được.
– Acid Ascorbic: bị oxy hóa tạo thành acid dehydroascorbic, đây là phản ứng oxy hóa khử thuận nghịch, qua đó Vitamin C có tác dụng như một đồng yếu tố (cofactor).
– Acid Ascorbic còn tham gia vào nhiều phản ứng hóa sinh trong cơ thể. Ví dụ như: Hydroxyl hóa, amid hóa, làm dễ dàng sự chuyển prolin, lysin sang hydroxyproline và hydroxylysine (trong tổng hợp collagen), giúp dễ hấp thu sắt,…
– Ngoài ra, nó còn là chất bảo vệ chống oxy hóa hữu hiệu vì có thể loại bỏ ngay các loại oxy, nitơ hoạt động, các oxy tự do và các hypoclorit, là những thành phần độc hại cho cơ thể.
– Trong invitro, đã chứng minh được tác dụng chống oxy hóa LDL- tác nhân gây xơ vữa động mạch, bằng cách loại bỏ ROS và RNS có trong môi trường nước.
Thuốc Nat-C 1000 được sử dụng trong các trường hợp:
– Các chứng chảy máu do thiếu vitamin C.
– Bệnh Scorbut.
– Thiếu máu do thiếu sắt.
– Sức đề kháng của cơ thể suy giảm trong bệnh: cảm cúm, nhiễm độc, nhiễm khuẩn, cảm lạnh,…
– Phối hợp với các thuốc chống dị ứng.
Uống vào buổi sáng/ trưa sau khi ăn, uống với một lượng nước lớn.
Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà liều lượng thuốc được sử dụng cho thích hợp. Dùng theo chỉ định của bác sĩ hoặc có thể tham khảo liều dùng sau:
– Trong bệnh thiếu vitamin C (Scorbut):
+ Dự phòng: 25 – 75 mg mỗi ngày (người lớn và trẻ em).
+ Ðiều trị: Người lớn với liều 250 – 500 mg/ngày chia thành nhiều liều nhỏ, uống ít nhất trong 2 tuần.
+ Trẻ em: 100 – 300 mg/ngày chia thành nhiều lần, uống ít nhất trong 2 tuần.
– Phối hợp với Desferrioxamine để tăng thêm đào thải sắt (do tăng tác dụng chelat – hóa của Desferrioxamin), liều vitamin C: 100 – 200 mg/ngày.
– Methemoglobin – huyết khi không có sẵn xanh methylen: 300 – 600 mg/ngày chia thành liều nhỏ.
– Bổ sung vào chế độ ăn: Người lớn từ 50 – 200 mg/ngày. Trẻ em: từ 35 – 100 mg/ngày.
– Phòng và điều trị cảm lạnh: 1 – 3g/ngày, chia thành nhiều lần dùng.
– Trường hợp quên 1 liều thì phải dùng càng sớm càng tốt. Nếu khoảng thời gian gần với liều kế tiếp thì không nên bù nữa mà nên sử liều kế tiếp như kế hoạch.
– Trường hợp dùng quá liều:
+ Có thể gặp các triệu chứng: buồn nôn, sỏi thận, viêm dạ dày, ỉa chảy.
+ Có thể gây lợi tiểu bằng truyền dịch hoặc nặng hơn thì phải đưa đến các cơ sở y tế để cấp cứu ngay. Người nhà cần mang theo đơn thuốc bệnh nhân đã sử dụng bao gồm cả thuốc kê đơn và không kê đơn.
Không được dùng Nat-C 1000 trong các trường hợp:
– Dùng liều cao cho các bệnh nhân đang điều trị thiếu máu do thiếu glucose – 6 – phosphate dehydrogenase (G6PD).
– Người bị bệnh Thalassemia do tăng nguy cơ hấp thu sắt.
– Người có tiền sử sỏi thận, tăng và loạn chuyển hóa oxalat.
– Tác dụng phụ thường gặp nhất ở thận là tăng oxalat niệu.
– Ngoài ra thì còn có một số tác dụng phụ ít gặp như:
+ Máu: Thiếu máu tan máu.
+ Tim mạch: Suy tim, bừng đỏ.
+ Thần kinh trung ương: Xỉu, chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi, mất ngủ.
+ Dạ dày – ruột: Co cứng cơ bụng, buồn nôn, nôn, ợ nóng, ỉa chảy.
+ Thần kinh – cơ và xương: Ðau cạnh sườn.
Nat-C 1000 có thể xảy ra tương tác với một số thuốc như sau:
– Với sắt nguyên tố: làm tăng hấp thu sắt qua đường dạ dày – ruột khi sử dụng theo tỷ lệ Vitamin C/ sắt nguyên tố = 200mg/30mg.
– Với Aspirin: làm tăng bài tiết Vitamin C và giảm bài tiết Aspirin trong nước tiểu.
– Với Fluphenazin: làm giảm nồng độ Fluphenazin huyết tương.
– Với Salicylate:
+ Salicylate ức chế bạch cầu và tiểu cầu hấp thu acid Ascorbic nên nồng độ acid Ascorbic ở bạch cầu và ở huyết tương bị giảm (chỉ cao hơn chút ít so với người bị thiếu hụt acid Ascorbic ở mô).
+ Vẫn chưa có bằng chứng về việc dùng Salicylat làm thúc đẩy tình trạng thiếu Vitamin C. Dù vậy, vẫn cần phải đánh giá tình trạng thiếu hụt khi người bệnh dùng liều cao salicylat mà không xuất hiện triệu chứng thiếu Vitamin C.
– Vitamin C liều cao làm:
+ Giảm hấp thu selen vì vậy nên uống cách nhau ít nhất 4 giờ.
+ Làm tăng tác dụng của nhôm hydroxyd và làm giảm tác dụng của Amphetamin.
+ Có thể phá hủy Vitamin B12.
– Nếu có Vitamin C trong nước tiểu sẽ làm xuất hiện tình trạng tăng giả lượng glucose nếu định lượng bằng thuốc thử đồng (II) sulfat và giảm giả lượng glucose nếu định lượng bằng phương pháp glucose oxydase.
– Ngoài ra có báo cáo cho rằng Vitamin C làm giảm tác dụng thuốc chống đông máu Warfarin.
Bên cạnh đó, cần tránh sử dụng rượu, bia, thuốc lá,… trong quá trình sử dụng Nat-C 1000.
– Đối với thời kỳ mang thai: Nếu dùng Nat-C 1000 theo liều dùng thông thường thì không thấy bất kỳ vấn đề nào xảy ra. Tuy nhiên, khi dùng một lượng lớn Vitamin C trong khi mang thai thì có thể dẫn đến bệnh Scorbut ở trẻ sơ sinh.
– Đối với bà mẹ cho con bú: Người mẹ sử dụng liều chỉ định thì không thấy ảnh hưởng gì với trẻ nhỏ.
Thuốc không ảnh hưởng đến khả năng lái xe, vận hành máy móc,…
– Bảo quản ở nhiệt độ từ 15-30 độ C, tránh ánh nắng trực tiếp.
– Để xa tầm tay trẻ em.
Thuốc Nat-C 1000 hiện được bày bán tại các nhà thuốc trên toàn quốc với giá bán dao động từ 5.000-6.000 đồng/viên. Để mua được thuốc giá rẻ, uy tín và chất lượng, bạn có thể liên hệ trực tiếp tại website của công ty hoặc số hotline.
– Thuốc có giá thành hợp lý, phù hợp với các đối tượng.
– Tác dụng tốt trong việc tăng cường sức đề kháng và miễn dịch cho cơ thể.
– Khi dùng thuốc có thể gặp tác dụng phụ.
– Có thể gây khó nuốt đối với người già và trẻ em.
Bài viết Các kiểu hình phụ của ARDS: Hiểu biết về một hội chứng không đồng nhất được dịch bởi Bác sĩ Đặng Thanh Tuấn từ bài viết gốc: ARDS Subphenotypes: Understanding a Heterogeneous Syndrome
Hội chứng suy hô hấp cấp (ARDS) là một hội chứng lâm sàng được xác định bởi tình trạng giảm oxy máu khởi phát cấp tính (PaO2:FiO2 ratio < 300) và hình mờ phổi hai bên không giải thích được đầy đủ do suy tim hoặc quá tải thể tích [1]. Định nghĩa đồng thuận của Berlin về ARDS, giống như định nghĩa Đồng thuận Mỹ-Âu trước đó, đã cho phép các bác sĩ lâm sàng và các nhà nghiên cứu như nhau xác định tiềm năng bệnh nhân mắc ARDS, thực hiện các chiến lược thông khí bảo vệ phổi và đưa bệnh nhân vào thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, ARDS vẫn chưa được công nhận về mặt lâm sàng; các liệu pháp điều trị còn hạn chế và tỷ lệ tử vong vẫn cao [2]. Việc không công nhận ARDS một phần có thể xuất phát từ sự không đồng nhất về mặt lâm sàng đáng kể được quan sát thấy giữa những bệnh nhân đáp ứng các tiêu chí ARDS tiêu chuẩn. Hội chứng có thể được khởi phát, ví dụ, do nhiễm trùng phổi hoặc ngoài phổi, hít sặc, chấn thương, truyền sản phẩm máu hoặc viêm tụy. Thâm nhiễm phổi có thể khu trú hoặc lan tỏa. Thiếu oxy máu có thể từ nhẹ đến nặng, và thời gian suy hô hấp có thể ngắn hoặc kéo dài. Nhiều biến thể lâm sàng trong số này có thể phản ánh sự khác biệt cơ bản về mặt sinh học giữa các bệnh nhân ARDS hiện được công nhận là động lực quan trọng của đáp ứng điều trị và kết quả cuối cùng.
Sự không đồng nhất đáng kể trong quần thể ARDS nói chung có khả năng góp phần vào sự thất bại của các liệu pháp thực nghiệm đối với ARDS trong các thử nghiệm lâm sàng lớn gần đây, mặc dù có dữ liệu tiền lâm sàng đầy hứa hẹn [3]. Xác định các kiểu hình phụ của ARDS – các nhóm đồng nhất hơn trong quần thể ARDS nói chung – là một cách tiếp cận để gỡ rối sự phức tạp về lâm sàng và sinh học mà nhiều người cho rằng là rào cản đối với việc khám phá ra các phương pháp điều trị mới thành công. Bằng cách xác định các nhóm kiểu hình phụ có ý nghĩa nhưng hiện chưa được công nhận bao gồm định nghĩa đồng thuận rộng rãi về ARDS, các biện pháp can thiệp có thể được kiểm tra hiệu quả hơn trong các nhóm được nhắm mục tiêu. Lựa chọn kiểu hình phụ của những bệnh nhân có nguy cơ cao hơn về kết quả xấu để tham gia thử nghiệm lâm sàng được gọi là làm giàu tiên lượng (prognostic enrichment) [4]. Việc lựa chọn những bệnh nhân có nhiều khả năng đáp ứng với một liệu pháp nhất định do cơ chế của lợi ích được gọi là làm giàu dự đoán (predictive enrichment) [4]. Cả hai chiến lược làm giàu đều được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm khuyến nghị để tăng hiệu quả của các thử nghiệm lâm sàng trên tất cả các lĩnh vực, bằng cách tăng tỷ lệ kết cục quan tâm (outcome of interest) (làm giàu tiên lượng) hoặc bằng cách khuếch đại kích cỡ hiệu ứng (amplifying the effect size) (làm giàu tiên đoán). Những cách tiếp cận này có thể cho phép các nhà nghiên cứu phát hiện hiệu quả điều trị trong các nhóm nhỏ hơn, điều này đặc biệt quan trọng trong các hội chứng không đồng nhất như ARDS. Tuy nhiên, cuối cùng, việc phát hiện ra các kiểu hình phụ ARDS có thể làm phong phú hơn các quần thể thử nghiệm lâm sàng: trong vòng một thập kỷ tới, những đổi mới này có thể giúp chúng ta chuyển từ cách tiếp cận phù hợp với tất cả đối với điều trị ARDS sang các liệu pháp hiệu quả hơn, được điều chỉnh dựa trên hồ sơ lâm sàng và sinh học của từng bệnh nhân.
Chương này tóm tắt tình trạng khoa học về phân loại kiểu hình phụ của bệnh nhân ARDS, khám phá các đặc điểm sinh lý, lâm sàng và sinh học đã được tìm thấy để xác định các nhóm phụ đồng nhất hơn trong hội chứng không đồng nhất này (Bảng 1), và tác động tiềm năng của những tiến bộ này đối với việc thực hành bác sĩ lâm sàng trong đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) và khoa cấp cứu.
Việc làm giàu tiên lượng trong nghiên cứu ARDS liên quan đến việc lựa chọn những bệnh nhân có khả năng mắc bệnh đặc biệt liên quan đến điểm cuối cao hơn, chẳng hạn như số ngày không thở máy ít hơn hoặc tỷ lệ tử vong cao hơn. Ngoài việc tăng hiệu quả nghiên cứu, việc xác định các kiểu hình phụ của bệnh nhân ARDS có nguy cơ cao nhất với kết cục kém cũng có thể dẫn đến cải thiện phân tầng nguy cơ tại giường bệnh, cho phép các bác sĩ lâm sàng lựa chọn những bệnh nhân có nhiều khả năng được hưởng lợi hơn từ việc chuyển viện giữa các cơ sở để có mức độ chăm sóc cao hơn hoặc xem xét sớm của các liệu pháp tích cực như oxy hóa qua màng ngoài cơ thể (ECMO).
Bảng 1 Ví dụ về các yếu tố được sử dụng để xác định các kiểu hình phụ của hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) | ||
Sinh lý | Lâm sàng | Sinh học |
PaO2:FiO2 | Chấn thương với nội khoa | Bộ gen (Genomic) |
Tỷ lệ khoảng chết | Trực tiếp với gián tiếp | Phiên mã (Transcriptomic) |
Áp lực đẩy | Khu trú với lan tỏa | Hệ protein (Proteomic) |
± Tổn thương thận cấp | Chuyển hóa (Metabolomic) |
Phân tầng nguy cơ của bệnh nhân ARDS không phải là một chiến lược mới. Bản thân định nghĩa Berlin phân loại ARDS thành ba phân nhóm (Bảng 2) theo mức độ giảm oxy máu (nhẹ, trung bình và nặng), và tử vong tăng lên khi tỷ lệ PaO2: FiO2 giảm [1]. Ưu điểm của phương pháp này là tỷ lệ PaO2:FiO2 có sẵn ở tất cả bệnh nhân ARDS và không yêu cầu giải thích của chuyên gia hoặc đánh giá lâm sàng chủ quan. Nhiều thử nghiệm ARDS lâm sàng lớn đã sử dụng tỷ lệ PaO2:FiO2 để làm giàu tiên lượng. Ví dụ, thử nghiệm ACURASYS về phong tỏa thần kinh cơ liên tục sớm [5], thử nghiệm PROSEVA về vị trí nằm sấp [6] và thử nghiệm ROSE đánh giá lại việc phong tỏa thần kinh cơ liên tục sớm [7] tất cả các bệnh nhân mục tiêu bị ARDS từ trung bình đến nặng (Tỷ lệ PaO2:FiO2 < 150 mmHg). Cả ba thử nghiệm này đều có tiêu chí tử vong và cả ba thử nghiệm đều có tỷ lệ tử vong ở nhóm đối chứng vượt quá 40%.
Bảng 2 Định nghĩa của Berlin về ARDS phân loại bệnh nhân theo mức độ nghiêm trọng của tình trạng thiếu oxy của họ; mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng có liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong [1] | |||
Độ nặng | Tỷ lệ PaO2:FiO2 (mmHg) | Bệnh nhân(%) | Tỷ lệ tử vong (%) |
Nhẹ | 201-300 | 22 | 27 |
Trung Bình | 101-200 | 50 | 32 |
Nặng | ≤100 | 28 | 45 |
Ngoài tỷ lệ PaO2:FiO2, một số biến số sinh lý khác được biết đến để dự đoán kết cục xấu trong ARDS. Tỷ lệ khoảng chết [8], tỷ lệ thông khí (chỉ số thông khí kém tại giường đơn giản) [9], và áp lực đẩy (đo lường mức độ độ giãn nở của hệ thống hô hấp) đều có liên quan độc lập với kết cục kém trong ARDS [10] và các phép đo thường quy hơn những biến số này có thể cải thiện sự phong phú về tiên lượng trong các thử nghiệm lâm sàng và dự đoán rủi ro trong thực hành lâm sàng.
Tuy nhiên, một hạn chế của việc sử dụng các phép đo sinh lý này là các biến số này có thể thay đổi nhanh chóng. Ví dụ, việc áp dụng áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP) cao hơn có thể nhanh chóng chuyển bệnh nhân từ phân nhóm mức độ trầm trọng của ARDS sang phân nhóm khác, hoặc bệnh nhân hút đàm tại thời điểm đặt nội khí quản bị giảm oxy máu nặng, có thể cải thiện trong vòng vài giờ. Có lẽ về cơ bản hơn, các đặc điểm sinh lý chung trong hầu hết các trường hợp không thể hiện được sự khác biệt quan trọng về sinh học giữa các bệnh nhân ARDS. Một bệnh nhân mắc ARDS liên quan đến truyền máu có thể có cùng tỷ lệ PaO2:FiO2 hoặc áp lực đẩy như một bệnh nhân mắc ARDS do cúm H1N1, nhưng sinh lý bệnh cơ bản của họ có thể rất khác và họ không có cùng nguy cơ dẫn đến kết cục kém. Thật vậy, định nghĩa của Berlin về ARDS còn lâu mới hoàn hảo như một công cụ dự báo tử vong, với diện tích dưới đường cong chỉ là 0,577 [1].
Nhận ra những hạn chế của phương pháp tiếp cận sinh lý học thuần túy đối với bệnh nhân kiểu hình phụ ARDS, các nhà điều tra cũng đã kiểm tra các biến số lâm sàng khác nhau để tăng cường sự phong phú về tiên lượng (Bảng 1). Ví dụ, bệnh nhân ARDS sau chấn thương được phát hiện có nguy cơ tử vong thấp hơn so với bệnh nhân ARDS không do chấn thương (tỷ số chênh 0,44) [11]. Luo và cộng sự phát hiện ra rằng mặc dù tỷ lệ tử vong nói chung tương tự nhau, các yếu tố dự báo tử vong khác nhau giữa ARDS trực tiếp (kích hoạt tại phổi) và gián tiếp (kích hoạt ngoài phổi) [12]. Bệnh nhân ARDS bị chấn thương thận cấp tính (AKI) đã được chứng minh là có tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể so với bệnh nhân không có AKI trong một số nhóm thuần tập [13, 14]. Do đó, khi cố gắng xác định bệnh nhân ARDS nguy cơ cao, bệnh nhân không do chấn thương và bệnh nhân có AKI đáng kể là một nhóm phụ có nguy cơ cao hơn, nhưng các yếu tố dự báo tử vong khác nhau tùy thuộc vào tổn thương phổi là trực tiếp hay gián tiếp.
Ngoài các đặc điểm lâm sàng cơ bản, thời gian điều trị ARDS là một yếu tố khác có thể xác định những bệnh nhân có nguy cơ bị kết cục kém hơn. Cả thời gian khởi phát và thời gian mắc bệnh đều có giá trị tiên lượng. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ARDS khởi phát > 48 giờ sau khi nhập viện ICU có liên quan đến tỷ lệ tử vong cao hơn [15, 16]. Không ngạc nhiên khi ARDS cải thiện nhanh chóng (ARDS tự khỏi trong vòng 1 ngày) có tiên lượng tốt hơn ARDS dai dẳng. Tuy nhiên, điều thú vị hơn là phát hiện hầu hết (63%) bệnh nhân ARDS cải thiện nhanh có biểu hiện giảm oxy máu vừa hoặc nặng [17], làm nổi bật những hạn chế của việc chỉ sử dụng tỷ lệ PaO2:FiO2 để xác định bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng. Nhận thức được vấn đề này, thử nghiệm PROSEVA về định vị nằm sấp chỉ ghi nhận bệnh nhân nếu họ tiếp tục đáp ứng các tiêu chuẩn thu nhận (tỷ lệ PaO2:FiO2 < 150 mmHg) sau 12–24 giờ ổn định [7].
Hình ảnh X quang của thâm nhiễm phổi cũng được sử dụng để phân loại bệnh nhân ARDS thành các phân nhóm đồng nhất hơn và xác định những người có nguy cơ tử vong cao nhất, đơn độc hoặc kết hợp với các biến số sinh lý và lâm sàng khác. Một nghiên cứu tiền cứu nhỏ cho thấy bệnh nhân ARDS có thâm nhiễm không khu trú có tỷ lệ tử vong cao hơn so với bệnh nhân có tổn thương trên X quang khu trú [18]. Thử nghiệm CESAR của ECMO đối với ARDS nặng yêu cầu Điểm phổi Murray (kết hợp chụp X quang phổi)>3 để đủ tiêu chuẩn (hoặc pH <7,20) [19, 20]. Gần đây hơn, điểm RALE – được phát triển để định lượng một cách có hệ thống mức độ và mật độ thâm nhiễm phế nang trên phim X quang ngực – đã được chứng minh để dự đoán tử vong trong 28 ngày với diện tích dưới đường cong là 0,82 [21].
Tuy nhiên, một nhược điểm rõ ràng là chỉ dựa vào các đặc điểm lâm sàng để xác định kiểu hình là khả năng phân loại sai. Trong một thử nghiệm gần đây về thông khí cơ học được cá nhân hóa theo sự hiện diện của thâm nhiễm khu trú và lan tỏa trong ARDS (sẽ thảo luận thêm ở phần sau), 21% các kiểu hình phụ X quang được chỉ định tại thời điểm ngẫu nhiên đã bị phân loại sai [22]. Tương tự, các nhà điều tra gặp khó khăn trong việc phân loại bệnh nhân là mắc ARDS trực tiếp hay gián tiếp, với 37% trường hợp được coi là không thể phân loại được trong một thử nghiệm [23]. Cần có những cách tiếp cận thực dụng và đáng tin cậy để phân loại để vượt qua những thách thức vốn có đối với việc phân loại kiểu hình lâm sàng.
Tiếp theo là ngày càng có nhiều sự quan tâm trong việc xác định các kiểu hình phụ sinh học của bệnh nhân ARDS. Các dấu hiệu sinh học được coi là gần với biểu hiện lâm sàng của ARDS, và có khả năng ít gặp các vấn đề về phân loại sai khiến việc xác định kiểu hình lâm sàng trở nên khó khăn. Hơn nữa, hiểu biết của chúng tôi về sinh học ARDS đã tiến bộ rất nhiều trong thập kỷ qua. Bây giờ chúng ta hiểu rõ hơn về cách một tổn thương ban đầu gây ra một đợt viêm dẫn đến tổn thương thêm cho phế nang và vi mạch của nó (Hình 1) [3].
”AECI: tế bào biểu mô phế nang loại I, AECII: tế bào biểu mô phế nang loại II, Ang- 2: angiopoietin-2, APC: protein hoạt hóa C, CC-16: tế bào club (trước đây là tế bào Clara) tiết protein 16, CCL: phối tử chemokine (CC motif), DAMP: mô hình phân tử liên kết tổn thương, EnaC: kênh natri biểu mô, GAG: glycosaminoglycan, HMGB1: protein nhóm 1 có tính di động cao, KL-6: Krebs von den Lungen 6, LPS: lipopolysaccharide, LTB4: leukotriene B4, MMP: ma trận metalloproteinase, MPO: myeloperoxidase, mtDNA: ty thể DNA, Na+/K+ ATPase: Bơm natri-kali ATPase, NF-κB: yếu tố hạt nhân chất tăng cường chuỗi ánh sáng kappa của tế bào B hoạt hóa, NET: bẫy ngoại bào trung tính, PAMP: mẫu phân tử liên quan đến mầm bệnh, PRR: thụ thể nhận dạng mẫu, ROS: loại oxy phản ứng, sICAM: kết dính gian bào hòa tan phân tử, SP: protein hoạt động bề mặt, sRAGE: thụ thể hòa tan cho các sản phẩm cuối quá trình glycation tiên tiến, TNF: yếu tố hoại tử khối u, VEGF: yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu, vWF: yếu tố von Willebrand. (Được sử dụng lại từ [3] với sự cho phép)”
Đo các dấu ấn sinh học huyết tương trong ARDS có thể giúp tìm ra các phân nhóm bệnh nhân có chung các đặc điểm đáp ứng vật chủ quan trọng và/hoặc có kết quả lâm sàng xấu hơn. Nhiều yếu tố gen, phiên mã, hệ protein và chuyển hóa đã được nghiên cứu cho mục đích này, với độ sâu nghiên cứu lớn nhất tập trung vào các dấu ấn sinh học protein huyết tương của ARDS. Chúng bao gồm các dấu hiệu của viêm hệ thống (interleukin [IL]-6, IL-8, yếu tố hoại tử khối u hòa tan [TNF] thụ thể-1, IL-18), tổn thương biểu mô (angiopoietin-2, phân tử kết dính gian bào-1), tổn thương nội mô (thụ thể hòa tan cho các sản phẩm cuối glycation nâng cao [sRAGE], protein hoạt động bề mặt-D), và đông máu bị rối loạn (chất ức chế hoạt hóa plasminogen-1, protein C), tất cả đều được chứng minh là có giá trị tiên lượng [24]. Ví dụ, mức cơ bản của sRAGE, đã dự đoán độc lập tỷ lệ tử vong trong 90 ngày trong một phân tích tổng hợp [25]. Gần đây hơn, Rogers và cộng sự phát hiện ra rằng tăng nồng độ IL-18 huyết tương ban đầu và tăng nồng độ IL-18 đều có liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong trong ARDS do nhiễm trùng huyết [26].
Sử dụng phương pháp tiếp cận để xác định các phân nhóm trong một quần thể không đồng nhất được gọi là phân tích lớp tiềm ẩn (LCA, latent class analysis), hai kiểu hình phụ khác biệt của ARDS được xác định dựa trên dữ liệu lâm sàng và sinh học kết hợp từ những bệnh nhân tham gia vào hai nhóm thử nghiệm lâm sàng lớn [27]. Kiểu hình phụ “tăng viêm” (hyper- inflammatory) được đặc trưng bởi tình trạng viêm tăng cường, số ngày không có máy thở ít hơn và tăng tỷ lệ tử vong so với kiểu hình phụ “giảm viêm” (hypo-inflammatory) (Hình 2). Hai kiểu hình phụ này đã được tìm thấy trong các phân tích độc lập tiếp theo của nhiều nhóm thử nghiệm ARDS khác, và tiên lượng xấu liên quan đến kiểu hình tăng viêm vẫn tồn tại [28, 29]. Sử dụng một cách tiếp cận khác, được gọi là phân cụm phân cấp, để phân tích một bảng các dấu ấn sinh học huyết tương từ bệnh nhân ARDS, Bos và cộng sự đã xác định được hai kiểu hình phụ tương tự: kiểu hình phụ “phản ứng” (reactive) đặc trưng bởi tình trạng viêm nhiều hơn và tăng tỷ lệ tử vong và kiểu hình phụ “không bị viêm” (uninflamed) liên quan đến kết quả tốt hơn [30]. Tổng hợp lại, những phát hiện này ủng hộ ý tưởng rằng bệnh nhân ARDS có thể được phân tầng theo các dấu hiệu viêm để làm giàu tiên lượng.
Việc tập trung vào cấu hình protein của bệnh nhân ARDS đã được song song quan tâm đến các kiểu hình phụ gen, phiên mã và chuyển hóa của ARDS, nhưng đã đạt được ít tiến bộ hơn về khả năng làm giàu tiên lượng với các chiến lược này. Meyer và cộng sự đã xác định một biến thể mã hóa IL-1RN làm tăng nguy cơ phát triển ARDS trong nhiễm trùng huyết [31], và Zhu và cộng sự đã tìm thấy một số vi RNA nhất định là dấu hiệu sinh học nguy cơ đối với ARDS ở những người trưởng thành bị bệnh nặng [32], nhưng phân loại gen và phiên mã của bệnh nhân mắc ARDS đã được phát hiện phần lớn vẫn chưa được khám phá. Trong một nhóm nhỏ bệnh nhân mắc ARDS, Rogers và cộng sự tìm thấy một nhóm nhỏ bệnh nhân có cấu trúc chuyển hóa riêng biệt với hàm lượng nhiều chất chuyển hóa cao hơn trong dịch phù phổi không pha loãng [33]. Kiểu hình phụ “chất chuyển hóa cao” này có liên quan đến tỷ lệ tử vong cao hơn, nhưng một phần do những thách thức liên quan đến việc phân tích dịch phù phổi, những phát hiện này vẫn chưa được tái tạo trong một nhóm thuần tập lớn hơn.Thật vậy, việc đo lường các dấu ấn sinh học protein và dữ liệu “-omics” ở bệnh nhân ARDS hiện không có sẵn bên ngoài môi trường nghiên cứu. Hơn nữa, tác động của việc xác định kiểu hình phụ sinh học đối với kết cục cuối dòng (downstream) ở bệnh nhân ARDS chưa được đánh giá tiền cứu. Các nhà điều tra gần đây đã xác định được một mô hình “phân biệt đối xử” phân loại bệnh nhân ARDS là “giảm” hoặc “tăng viêm” chỉ sử dụng ba dấu ấn sinh học huyết tương (IL-8, bicarbonate và protein C) [34], và phân tích nhanh các dấu ấn sinh học để xác định kiểu hình phụ ARDS tại điểm chăm sóc hiện đang được thí điểm. Phát triển các xét nghiệm nhanh là một bước quan trọng trong việc tận dụng việc xác định các kiểu hình phụ ARDS để làm giàu tiên lượng trong các thử nghiệm lâm sàng trong tương lai, và cuối cùng đưa những khám phá này vào đầu giường.
Song song với các chiến lược khác nhau này để xác định các phân nhóm và kiểu hình để làm giàu tiên lượng trong ARDS, các nhà điều tra cũng đã nghiên cứu các hiệu quả điều trị thay đổi như thế nào theo kiểu hình phụ. Bằng cách tìm ra phản ứng điều trị theo kiểu hình phụ cụ thể một cách hồi cứu hoặc điều trị nhắm mục tiêu dựa trên cơ chế và đặc điểm sinh học, các nhà nghiên cứu sau đó có thể tiếp tục thử nghiệm tiền cứu các can thiệp mới ở những bệnh nhân có nhiều khả năng đáp ứng hơn. Cách tiếp cận này cung cấp khả năng dự đoán phong phú hơn: bằng cách khuếch đại đáp ứng điều trị, khả năng phát hiện lợi ích từ các liệu pháp thử nghiệm tăng lên và việc khám phá trở nên hiệu quả hơn. Cũng giống như kiểu hình sinh học của các bệnh khác, chẳng hạn như ung thư vú hoặc hen suyễn, đã dẫn đến những cải thiện quan trọng trong kết quả của bệnh nhân, mục tiêu cuối cùng là triển khai các liệu pháp nhắm mục tiêu cho ARDS theo đặc điểm của bệnh nhân, chuyển lĩnh vực này từ chăm sóc theo phác đồ sang y học chính xác.
Trong khi nhiều người xem các thông số sinh lý học như tỷ lệ PaO2:FiO2 là các chỉ số tiên lượng thuần túy, chúng cũng có thể cung cấp khả năng dự đoán phong phú hơn. Như Prescott và cộng sự. lưu ý trong cuộc thảo luận của họ về các chiến lược thử nghiệm lâm sàng ARDS, tỷ lệ PaO2:FiO2 thấp hơn không chỉ xác định những bệnh nhân có nguy cơ tử vong cao hơn mà còn phản ánh những bệnh nhân có trọng lượng phổi lớn hơn, những người có nhiều khả năng được hưởng lợi hơn từ các cuộc điều động tuyển dụng, PEEP cao hơn hoặc nằm nghiêng [35]. Tương tự, người ta có thể đưa ra giả thuyết rằng trong số những bệnh nhân bị ARDS nặng, những người có áp lực bình nguyên > 30 cmH2O hoặc áp lực đẩy không thuận lợi mặc dù tuân thủ chiến lược thông khí bảo vệ phổi có thể có nhiều khả năng được hưởng lợi hơn từ việc “phổi nghỉ ngơi” với mức cực thấp thể tích khí lưu thông trên ECMO.
Dược sĩ Lưu Anh tốt nghiệp trường Đại học Dược Hà Nội hệ chính quy. Trường Đại học Dược Hà Nội là ngôi trường đào tạo Dược sĩ đầu tiên tại Việt Nam với bề dày kinh nghiệm và uy tín hàng đầu. Là thành viên của Heal Central Việt Nam, dược sĩ Lưu Anh với mong muốn chia sẻ kiến thức chuyên môn về lĩnh vực y tế sức khoẻ đến cộng đồng, đẩy xa tin giả, tin thiếu chính xác, tin không có tính khoa học.
Các bài viết chia sẻ từ Dược sĩ Lưu Anh được tổng hợp lại từ các bài viết của Bác sĩ, Dược sĩ chuyên môn hàng đầu tại Việt Nam, các bài dịch từ phiên bản Tiếng Anh của các tạp chí y khoa lớn như Pubmed, Drugs.com, FDA, The Lancet,... Đặc biệt, Dược sĩ Lưu Anh liên tục cập nhật các Guideline hướng dẫn điều trị mới nhất của các bệnh được biên dịch lại bởi các bác sĩ đầu ngành từ các tài liệu Guideline của tổ chức uy tín trên thế giới mang đến nguồn tài liệu uy tín, cập nhật mới liên tục cho cộng đồng chuyên môn bác sĩ, dược sĩ.